Lịch sử hình thành Pháo binh (Quân lực VNCH)

Pháo binh Việt Nam Cộng hòa được thành lập vào đầu thập niên 1950. Thoạt đầu thành lập các Pháo đội tác xạ biệt lập (sau đó kết hợp thành các Tiểu đoàn Pháo binh). Pháo đội biệt lập đầu tiên thành lập tại Bắc Việt ngày 1 tháng 11 năm 1951.

  • Tính đến tháng 4 năm 1975 Pháo binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa gồm có:

1/ Bộ Chỉ huy Pháo binh[3]
2/ Trường Pháo binh[4]
3/ Bốn Bộ Chỉ huy Pháo binh Quân đoàn đặt tại cạnh các Bộ Tư lệnh Quân đoàn: Đà Nẵng (Quân đoàn I), Pleiku (Quân đoàn II), Biên Hòa (Quân đoàn III) và Cần Thơ (Quân đoàn IV).
-Mười một Bộ Chỉ huy Pháo binh phối thuộc với 11 Sư đoàn Bộ binh đóng tại địa bàn hoạt động của từng Sư đoàn.
-Hai Bộ Chỉ huy Pháo binh của Sư đoàn Nhảy dùThủy quân Lục chiến đóng tại địa bàn hoạt động của Sư đoàn. Hậu cứ đặt tại Sài Gòn.

Pháo binh mỗi Sư đoàn Bộ binh có 1 Tiểu đoàn 155ly, 3 Tiểu đoàn 105ly. Pháo binh Sư đoàn Nhảy dù và Thuỷ quân Lục chiến không có pháo 155ly. Ngoài ra còn 176 Trung đội Pháo binh 105ly Lãnh thổ (Diện địa).

Thuộc quyền sử dụng các Bộ Tư lệnh Quân đoàn gồm có: 5 Tiểu đoàn pháo Cơ động 175ly, 4 Tiểu đoàn pháo 155ly và 5 Tiểu đoàn pháo 105 ly được phân bổ như sau:
1/ Quân đoàn I: Các Tiểu đoàn: 101, 102, 105 (pháo Cơ động 175ly), Tiểu đoàn 44 (pháo 155ly), Tiểu đoàn 1 và 3 (pháo Phòng không).
2/ Quân đoàn II: Các Tiểu đoàn: 103 (pháo Cơ động 175ly), Tiểu đoàn 37 (pháo 155ly), Tiểu đoàn 63 và 69 (pháo 105ly) Tiểu đoàn 4 (pháo Phòng không).
3/ Quân đoàn III: Các Tiểu đoàn: 104 (pháo Cơ động 175ly), Tiểu đoàn 46 (pháo 155ly), Tiểu đoàn 61 (pháo 105ly), Tiểu đoàn 2 (pháo Phòng không).
4/ Quân đoàn IV: Các Tiểu đoàn: 47 (pháo 155ly) Tiểu đoàn 67 và 68 (pháo 105ly).